Thứ 5, 19/06/2025, 19:24 (GMT+7)
Liên hệ quảng cáo: 0934 635 884

Cần quan tâm bảo tồn và khai thác hợp lý nguồn lợi sá sùng

Sau 45 phút đi tàu cao tốc từ cảng Cái Rồng, xã đảo Quan Lạn (Vân Đồn) hiện ra trước mắt tôi với sự thanh bình cùng vẻ đẹp hoang sơ của những cồn cát và rừng phi lao trải dài... Không chỉ vậy, thiên nhiên còn ưu đãi cho Quan Lạn rất nhiều loại hải sản quý hiếm, trong đó có loài sá sùng mà từ lâu đã trở thành đặc sản cần được bảo tồn của xã đảo này.



Chuyện về con sá sùng

Đến Quan Lạn đi đến đâu cũng thấy trong câu chuyện của những người dân trên đảo đều xoay quanh chủ đề về con sá sùng, bởi lẽ khai thác sá sùng từ lâu đã gắn bó với họ và trở thành nghề truyền thống. Phải đi bộ hơn 3km từ trụ sở UBND xã tôi và chị Hoàng Thị Xuân Điểm, Chủ tịch Hội Phụ nữ xã mới đến được khu vực bãi triều nơi khai thác sá sùng. Toàn bộ khu bãi triều với diện tích rộng vài trăm ha, những bóng người lô nhô nhưng chủ yếu là chị em phụ nữ - đem thắc mắc này tôi hỏi chị Điểm, chị cho biết: “Sở dĩ lực lượng lao động làm nghề khai thác sá sùng là các chị em phụ nữ trong xã, vì nghề này đòi hỏi tính nhẫn nại, bền bỉ và hợp với phụ nữ hơn. Vừa nói đến đó, nhanh như cắt chị phóng chiếc mai xuống và hất lên tảng cát lớn, một con sá sùng đỏ hồng lộ ra, thoạt nhìn rất giống con giun, có khác là thứ đặc sản biển này mập và lớn hơn giun; loại “trưởng thành” đạt chuẩn, dài từ 7-15cm’’.

Cảnh khai thác sá sùng trên bãi triều Quan Lạn.
Cảnh khai thác sá sùng trên bãi triều Quan Lạn.

Sá sùng sinh sống trên các bãi cát vùng triều và dưới triều, thường là những vùng tiếp giáp với vùng có rừng ngập mặn. Chị Điểm cho biết thêm: Loại này thường ẩn mình trong các đường hang tự đào trong cát, khi kiếm ăn chúng chui lên bề mặt bãi cát, dùng các xúc tu dài để tìm kiếm thức ăn xung quanh miệng hang và sẽ chui xuống cát rất nhanh khi có tiếng động. Khi kiếm ăn trên bãi cát, sá sùng thường để lại dấu vết như nét vẽ một bông hoa, đồng thời đối diện với bông hoa đó chừng 15-20cm có một lỗ nhỏ, mà người dân nơi đây hay gọi là “mà”. Để bắt được sá sùng (theo người dân nơi đây vẫn thường gọi là con mồi) phải đưa nhanh lưỡi mai đào từ “mà” về phía “bông hoa”. Khi mặt trời chưa rạng chỉ cần đào khoảng 20-30cm là có thể thấy sá sùng, đến gần trưa, nhiệt độ lên cao, có lúc phải đào tới 60-70cm mới bắt được sá sùng.

Chị Nguyễn Thị Ngà, một người có thâm niên và là người đào sá sùng giỏi chia sẻ, việc đào sá sùng không vất vả lắm, nhưng đòi hỏi phải kiên trì và có kỹ thuật; chi phí đầu tư để mua dụng cụ khai thác chỉ vài trăm nghìn đồng (mua rỗ và mai để đào) nhưng ai chịu khó có ngày cũng kiếm được tiền triệu. Ngoài việc khai thác, chị còn thu mua sá sùng ngay tại bãi về sấy khô. Mỗi một cân sá sùng tươi dao động từ 200.000 đến 250.000 đồng tuỳ từng loại, khoảng 10kg sá sùng tươi mới làm ra được 1kg sá sùng khô. Chính vì vậy mà giá sùng khô khá đắt từ 3 đến 3,8 triệu đồng/kg tuỳ từng thời điểm. Chị Ngà tâm sự: “Sản lượng sá sùng những năm gần đây giảm rất nhiều so với các năm trước. Năm 2005 vào mùa khai thác chính bình quân một người một ngày có thể khai thác được khoảng 4kg, nếu người có kinh nghiệm khai thác được khoảng 8-10kg/ngày. Nhưng đến nay vào mùa khai thác, những người có kinh nghiệm cũng chỉ khai thác được từ 2 đến 3kg/ngày”.

Nỗ lực bảo vệ nguồn lợi

Phải nói rằng, nguồn lợi sá sùng đã cải thiện kinh tế cho nhiều người dân trên đảo. Hiện nay, trên địa bàn xã có khoảng 800 hộ khai thác sá sùng, với thu nhập từ 7 đến 8 tỷ đồng/năm.

Tìm hiểu về việc quản lý và bảo vệ nguồn lợi này, đồng chí Phạm Văn Thuận, Phó Chủ tịch UBND xã cho biết: “Trước đây có thời gian việc khai thác sá sùng quá mức cùng với việc bắt cả sá sùng con hay khai thác sá sùng vào mùa sinh sản dẫn tới nguồn tài nguyên quý giá này bị cạn kiệt. Sá sùng con khai thác chủ yếu được bán sang Trung Quốc để nuôi tiếp, do người dân không ý thức được việc bảo vệ nguồn lợi nên đã khai thác sá sùng con”. Anh Thuận còn cho biết thêm, UBND xã Quan Lạn đã ra một số chính sách để bảo vệ nguồn lợi sá sùng như: Cấm khai thác sá sùng con có kích thước nhỏ hơn 5cm, cấm khai thác thuỷ sản bằng xiếc điện, cấm khai thác đào bắt sá sùng mẹ, tuyên truyền cho người dân tác hại của các việc làm trên. Từ khi có chính sách này, người dân cũng nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ nguồn lợi, nên khi khai thác bà con nhận thấy những con nào bé thì tự động lấp cát để cho sá sùng tiếp tục sống và sinh sản.

Chị Nguyễn Thị Ngà cũng chia sẻ thêm: “Nhiều lúc đào lên một con sá sùng bé hơn con bình thường khoảng 5cm, chị em chúng tôi liền lấy cát lấp lại thả nó về với biển để nó còn lớn và sinh sản. Ngoài ra, trong quá trình chế biến sá sùng, nước rửa sá sùng bà con cũng gánh ra bãi đổ, vì trong nước rửa có ấu trùng sá sùng sẽ sinh sống và phát triển”.

Mặc dù, nghề khai thác sá sùng đã cải thiện kinh tế, mang lại cuộc sống ổn định cho người dân nơi đây, tuy nhiên, hiện nay việc thu mua, chế biến sá sùng khô vẫn còn nhỏ, lẻ mới dừng lại ở quy mô hộ gia đình. Chính vì vậy, rất cần sự quan tâm của các cấp, các ngành trong việc bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là công tác đầu tư, xây dựng thương hiệu cho sá sùng Quan Lạn để đảm bảo phát triển bền vững, góp phần nâng cao đời sống kinh tế của người dân nơi đây hơn nữa.

Trang Thu